Bảo hiểm là gì? bạn nên biết các loại bảo hiểm cơ bản nào?

 

Bảo hiểm là gì? bạn nên biết các loại bảo hiểm cơ bản nào?
bảo hiểm là cuộc sống

Bảo
hiểm là gì?

Bảo hiểm là phương
thức bảo vệ trước những tổn thất tài chính. Đó là hình thức quản lý rủi ro, chủ
yếu được sử dụng để bảo hiểm cho những rủi ro ngẫu nhiên hoặc tổn thất có thể
xảy ra. Một doanh nghiệp cung cấp bảo hiểm được gọi là nhà bảo hiểm, công ty
bảo hiểm.

Khái
niệm cơ bản về bảo hiểm

Có rất nhiều định
nghĩa khác nhau về bảo hiểm được xây dựng dựa trên từng góc độ nghiên cứu xã
hội, pháp lý, xã hội, kỹ thuật, nghiệp vụ…)

Định nghĩa 1: Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào
sự bất hạnh của số ít.

Định nghĩa 2: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một
bên là người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực
hiện mong muốn để cho mình hoặc để cho một người thứ 3 trong trường hợp xảy ra
rủi ro sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó
là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và
đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê.

Bảo hiểm có thể định
nghĩa là một phương sách hạ giảm rủi ro bằng cách kết hợp một số lượng đầy đủ
các đơn vị đối tượng để biến tổn thất cá thể thành tổn thất cộng đồng và có thể
dự tính được. Các định nghĩa trên thường thiên về một góc độ nghiên cứu nào đó
(hoặc thiên về xã hội – định nghĩa 1, hoặc thiên về kinh tế, luật pháp – định
nghĩa 2, hoặc thiên về kỹ thuật tính – định nghĩa 3).

Một định nghĩa vừa đáp
ứng được khía cạnh xã hội (dùng cho bảo hiểm xã hội) vừa đáp ứng được khía cạnh
kinh tế (dùng cho bảo hiểm thương mại) và vừa đầy đủ về khía cạnh kỹ thuật và
pháp lý có thể phát biểu như sau: Bảo hiểm là một hoạt động qua đó một
cá nhân có quyền được hưởng trợ cấp nhờ vào một khoản đóng góp cho mình hoặc
cho người thứ 3 trong trường hợp xảy ra rủi ro. Khoản trợ cấp này do một tổ
chức trả, tổ chức này có trách nhiệm đối với toàn bộ các rủi ro và đền bù các
thiệt hại theo các phương pháp của thống kê.

Đặc điểm cơ bản của Bảo hiểm

·        
Bảo hiểm là một loại
dịch vụ đặc biệt;

·        
Bảo hiểm vừa mang tính
bồi hoàn, vừa mang tính không bồi hoàn;

Vai trò cơ bản nhất của Bảo hiểm

·        
Bảo toàn vốn sản xuất kinh
doanh và ổn định đời sống của người tham gia bảo hiểm;

·        
Đề phòng và hạn chế
tổn thất;

·        
Bảo hiểm là một công
cụ tín dụng;

·        
Góp phần thúc đẩy phát
triển quan hệ kinh tế giữa các nước thông qua hoạt động tái bảo hiểm.

Hình thức bảo hiểm

1 Bảo hiểm xã hội

Bài chi tiết:

Bảo hiểm xã hội là
loại hình bảo hiểm do nhà nước tổ chức và quản lý nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật
chất ổn định cuộc sống của người lao động và gia đình họ khi gặp những rủi ro
làm giảm hoặc mất khả năng lao động. Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội: Theo
khuyến nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế ILO tại Công ước Giơnevơ năm 1952:

·        
Chăm sóc y tế;

·        
Trợ cấp ốm đau;

·        
Trợ cấp thất nghiệp;

·        
Trợ cấp tuổi già;

·        
Trợ cấp tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp;

·        
Trợ cấp gia đình;

·        
Trợ cấp sinh sản;

·        
Trợ cấp tàn phế;

·        
Trợ cấp cho người bị
mất người nuôi dưỡng.

Ở Việt Nam, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam thực hiện 7 chế độ

·        
Bảo hiểm thất nghiệp;

·        
Trợ cấp ốm đau;

·        
Trợ cấp thai sản;

·        
Trợ cấp tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp;

·        
Trợ cấp hưu trí;

·        
Trợ cấp tử tuất;

·        
Bảo hiểm y tế.

Cơ chế hình thành và
sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội: Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội

·        
Người sử dụng lao động
đóng góp;

·        
Người lao động đóng
góp một phần tiền lương của mình; thu từ các đối tượng tham gia BHXH tự nguyện.

·        
Nhà nước đóng góp và
hỗ trợ.

Sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội

Chi các khoản trợ cấp
và chi phí cho người tham gia bảo hiểm xã hội trong các trường hợp:

·        
Gặp phải các biến cố
đã quy định trong chế độ bảo hiểm xã hội;

·        
Người được bảo hiểm là
thành viên của bảo hiểm xã hội;

·        
Đóng bảo hiểm xã hội
đều đặn;

·        
Chi khác: chi quản lý,
nộp bảo hiểm y tế theo quy định, chi hoa hồng đại lý, v.v…

2 Bảo hiểm y tế

Bảo hiểm là gì? bạn nên biết các loại bảo hiểm cơ bản nào?
Bảo hiểm y tế tại sao lại quan trọng


Bài chi tiết: Bảo
hiểm y tế

Bảo hiểm y tế là các
quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các nguồn tài lực từ sự đóng góp của
những người tham gia bảo hiểm để hình thành quỹ bảo hiểm, và sử dụng quỹ để
thanh toán các chi phí khám chữa bệnh cho người được bảo hiểm khi ốm đau.

Đặc điểm của bảo hiểm y tế

·        
Vừa mang tính chất bồi
hoàn, vừa mang tính chất không bồi hoàn;

·        
Quá trình phân phối
quỹ bảo hiểm y tế gắn chặt với chức năng giám đốc bằng đồng tiền đối với mục
đích tạo lập và sử dụng quỹ.

Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm y tế

·        
Vì quyền lợi của người
tham gia bảo hiểm và bảo đảm an toàn sức khỏe cho cộng đồng;

·        
Chỉ bảo hiểm cho những
rủi ro không lường trước được, không bảo hiểm những rủi ro chắc chắn sẽ xảy ra
hoặc đã xảy ra;

·        
Hoạt động dựa trên
nguyên tắc số đông bù số ít.

Đối tượng của bảo hiểm y tế

Đối tượng của bảo hiểm
y tế là sức khỏe của người được bảo hiểm (rủi ro ốm đau, bệnh tật,…).

Hình thức của bảo hiểm y tế

Bảo hiểm y tế bắt
buộc;

Bảo hiểm y tế tự
nguyện.

Phạm vi của bảo hiểm y tế

·        
Bảo hiểm y tế là một
chính sách xã hội của mọi quốc gia trên thế giới do chính phủ tổ chức thực
hiện, nhằm huy động sự đóng góp của mọi tầng lớp trong xã hội để thanh toán chi
phí y tế cho người tham gia bảo hiểm;

·        
Người tham gia bảo
hiểm y tế khi gặp rủi ro về sức khỏe được thanh toán chi phí khám chữa bệnh với
nhiều mức khác nhau tại các cơ sở y tế;

·        
Một số loại bệnh mà
người đến khám bệnh được ngân sách nhà nước đài thọ theo quy định; cơ quan bảo
hiểm y tế không phải chi trả trong trường hợp này.

Cơ chế hình thành và
sử dụng quỹ bảo hiểm y tế: Hình thành quỹ bảo hiểm y tế:

·        
Ngân sách nhà nước
cấp;

·        
Tài trợ của các tổ
chức xã hội, từ thiện;

·        
Phí bảo hiểm y tế của
người tham gia bảo hiểm, đối với người nghỉ hưu, mất sức: do bảo hiểm xã hội
đóng góp;

·        
Phí bảo hiểm của tổ
chức sử dụng người lao động.

Sử dụng quỹ bảo hiểm y tế

·        
Thanh toán chi phí y
tế cho người tham gia bảo hiểm theo định mức;

·        
Chi dự trữ, dự phòng;

·        
Chi cho đề phòng hạn
chế tổn thất;

·        
Chi phí quản lý;

·        
Chi trợ giúp cho hoạt
động nâng cấp các cơ sở y tế.

3 Bảo hiểm kinh doanh

Trên góc độ tài chính,
bảo hiểm kinh doanh là một hoạt động dịch vụ tài chính nhằm phân phối lại những
tổn thất khi rủi ro xảy ra. Trên góc độ pháp lý, bảo hiểm kinh doanh thực chất
là một bản cam kết mà một bên đồng ý bồi thường cho bên kia khi gặp rủi ro nếu
bên kia đóng phí bảo hiểm. Do đó, bảo hiểm kinh doanh là các quan hệ kinh tế
gắn liền với việc huy động các nguồn tài chính thông qua sự đóng góp của các tổ
chức và cá nhân tham gia bảo hiểm.

Đặc điểm của bảo hiểm
kinh doanh:

·        
Người tham gia bảo
hiểm phải đóng phí bảo hiểm;

·        
Là một biện pháp hiệu
quả nhất cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và an toàn
với đời sống cộng đồng.

Nguyên tắc của bảo
hiểm kinh doanh:

·        
Bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của người tham gia bảo hiểm cũng như doanh nghiệp kinh doanh bảo
hiểm.

·        
Doanh nghiệp bảo hiểm
hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh.

·        
Doanh nghiệp bảo hiểm
hoạt động tuân theo luật pháp quy định cho doanh nghiệp nói chung, và cho doanh
nghiệp bảo hiểm nói riêng.

·        
Doanh nghiệp bảo hiểm
hoạt động theo nguyên tắc lấy số đông bù số ít.

·        
Doanh nghiệp bảo hiểm
phải tuân thủ nguyên tắc an toàn tài chính.

Hình thức của bảo hiểm
kinh doanh:

Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm

1.  
Bảo hiểm tài sản:

o    Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu;

o    Bảo hiểm thân tàu, thuyền, ô tô,…;

o    Bảo hiểm hỏa hoạn.

2.  
Bảo hiểm trách nhiệm
dân sự;

3.  
Bảo hiểm con người

Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động:

o    Bảo hiểm nhân thọ;

o    Bảo hiểm phi nhân thọ.

Căn cứ vào tính chất hoạt động:

1.  
Bảo hiểm tự nguyện;

2.  
Bảo hiểm bắt buộc.

Cơ chế, phân phối và
sử dụng quỹ bảo hiểm kinh doanh: Cơ chế hình thành quỹ bảo hiểm kinh doanh

·        
Vốn kinh doanh;

·        
Doanh thu và thu nhập.

Phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm kinh doanh

·        
Ký quỹ;

·        
Quỹ dự trữ bắt buộc;

·        
Bồi thường tổn thất và
trả tiền bảo hiểm;

·        
Dự phòng nghiệp vụ;

·        
Nghĩa vụ đối với ngân
sách nhà nước;

·        
Chế độ phân phối lợi
nhuận.

4 Bảo hiểm thương mại

Bảo hiểm thương mại
hay hoạt động kinh doanh bảo hiểm được thực hiện bởi các tổ chức kinh doanh bảo
hiểm trên thị trường bảo hiểm thương mại. Bảo hiểm thương mại chỉ những hoạt
động mà ở đó các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro trên cơ sở người được
bảo hiểm đóng một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm bồi
thường hay trả tiền bảo hiểm khi xảy ra các rủi ro đã thỏa thuận trước trên hợp
đồng.

Nội dung Bảo hiểm
thương mại: Nội dung của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, ngoài mối quan hệ giữa
doanh nghiệp bảo hiểm với khách hàng của mình (gọi là Người mua bảo hiểm) còn
được thể hiện trong mối quan hệ giữa người bảo hiểm gốc và người nhận tái bảo
hiểm khi thực hiện tái bảo hiểm và bao hàm các hoạt động của trung gian bảo
hiểm như: môi giới, đại lý…. Nhà bảo hiểm thương mại hoạt động kinh doanh
nhằm mục đích thu lợi nhuận trong việc đảm bảo rủi ro cho khách hàng của mình.

Lợi ích: Trong cuộc
sống hàng ngày, lúc này hay lúc khác, dù không hề mong muốn và dù khoa học kỹ
thuật có tiến bộ đến đâu, người ta vẫn có thể phải gánh chịu những rủi ro tổn
thất bất ngờ. Tác động của rủi ro làm cho con người không thu hái được kết quả
như đã dự định trước và tạo ra sự ngưng trệ quá trình sản xuất, sinh hoạt của
xã hội. Đó chính là tiền đề khách quan cho sự ra đời của các loại quỹ dự trữ
bảo hiểm nói chung và hoạt động bảo hiểm thương mại nói riêng. Tồn tại song
song với các quỹ dự trữ khác, Bảo hiểm thương mại đóng vai trò như một công cụ
an toàn thực hiện chức năng bảo vệ con người, bảo vệ tài sản cho kinh tế và xã
hội. Cụ thể là:

§ Đối với người dân, bảo hiểm đảm bảo cho họ về
mặt
 tài chính nhằm khắc phục hậu quả khi bất ngờ gặp rủi ro tai nạn hay bệnh
tật như chi phí điều trị, viện phí, thu nhập hoặc
tiết kiệm không đủ,….Bảo hiểm nhân thọ còn
cung cấp những chương trình tiết kiệm và là người đại diện đầu tư mang lại lợi
tức cho khách hàng.

§ Đối với các doanh nghiệp, tham gia bảo hiểm
giúp các doanh nghiệp với việc bỏ ra một khoản phí bảo hiểm ổn định và nhỏ có
thể hoán chuyển rủi ro – những yếu tố không ổn định và tổn thất không lường
trước được sang cho nhà bảo hiểm. Nhờ vậy, các doanh nghiệp an tâm sản xuất và
khi có những tổn thất xảy ra, bồi thường bảo hiểm sẽ giúp họ nhanh chóng khôi
phục quá trình kinh doanh.

§ Đối với ngân hàng thương mại, bảo hiểm đảm
bảo cho khả năng hoàn trả vốn vay của doanh nghiệp – người đi vay trong những
trường hợp gặp rủi ro tổn thất. Mặt khác, các loại hình bảo hiểm nhân thọ còn
giúp các ngân hàng an tâm triển khai các loại hình tín dụng tiêu dùng cho người
dân.

§ Hoạt động bảo hiểm phát triển. góp phần cải
thiện môi trường đầu tư, giảm thiểu rủi ro trong đầu tư tạo ra môi trường thuận
lợi cho việc hợp tác kinh tế, kỹ thuật, thương mại và thu hút vốn đầu tư nước
ngoài. Mặt khác hoạt động bảo hiểm còn mang về cho kinh tế quốc dân một khoản
ngoại tệ đáng kể.

§ Bảo hiểm chẳng những có tác dụng bồi thường
tổn thất sau khi có rủi ro phát sinh mà còn góp phần rất lớn cho việc đề phòng
rủi ro và hạn chế tổn thất. Nhà bảo hiểm thường sử dụng những chuyên gia giỏi,
tổ chức các dự án nghiên cứu, tư vấn – tài trợ cho cơ quan quản lý nhà nước áp
dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro và hạn chế tổn thất hoặc tư vấn cho khách
hàng tăng cường quản trị rủi ro ở đơn vị mình.

§ Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm với
việc nắm giữ quỹ tiền tệ bảo hiểm rất lớn nhưng tạm thời nhàn rỗi đã trở thành
những nhà đầu tư lớn. Bảo hiểm vì vậy còn có vai trò trung gian tài chính là
một kênh huy động và cấp vốn có hiệu cho nền kinh tế. Đặc biệt, ở nhiều nước
phát triển, các nhà bảo hiểm còn bảo hiểm cho trái phiếu nhất là trái phiếu đô
thị. Điều nầy làm tăng tính an toàn của trái phiếu đô thi, giúp cho chính quyền
trung ương và địa phương thu hút vốn từ dân cư, đầu tư cho các dự án y tế, giáo
dục, công trình phúc lợi và cơ sở hạ tầng.

§ Với những lợi ích nói trên, bảo hiểm đã ra
đời từ rất lâu và ngày càng phát triển. Trong những năm gần đây, hàng năm, trên
toàn thế giới, số phí bảo hiểm thu được lên đến hàng ngàn tỷ đô la Mỹ (năm
2001: trên 2400 tỷ), trung bình mỗi cư dân trên hành tinh chúng ta mỗi năm bỏ
ra 393 USD cho việc tham gia bảo hiểm, trong đó, 235 USD cho BHNT và 158 USD
cho BHPNT. Ở nhiều nước, bảo hiểm chiếm tỷ lệ đáng kể trong GDP (Ví dụ, Hàn
quốc: 12%, Nhật bản: 11%, Mã lai: 5%). Hàng năm, bảo hiểm cũng đã góp phần đáng
kể trong việc khắc phục hậu quả của những tổn thất đặc biệt là các tổn thất
thảm họa.

Đặc điểm của Bảo hiểm thương mại: Nhìn chung, bảo hiểm thương mại có một số đặc
điểm cơ bản sau:

¾ Trước tiên, hoạt động bảo hiểm thương mại là
một hoạt động thỏa thuận (nên còn gọi là bảo hiểm tự nguyện);

¾ Hai là, sự tương hổ trong bảo hiểm thương mại
được thực hiện trong một “cộng đồng có giới hạn”, một “nhóm
đóng”;

¾ Ba là, bảo hiểm thương mại cung cấp dịch vụ
đảm bảo không chỉ cho các rủi ro bản thân) mà còn cho cả rủi ro tài sản và
trách nhiệm dân sự.

Nguyên tắc hoạt động cơ bản của Bảo hiểm
thương mại
thì hoạt động bảo hiểm
nói chung, hoạt động bảo hiểm thương mại nói riêng tạo ra được một “sự
đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít” trên cơ sở quy tụ nhiều
người có cùng rủi ro thành cộng đồng nhằm phân tán hậu quả tài chính của những
vụ tổn thất. Số người tham gia càng đông, tổn thất càng phân tán mỏng, rủi ro
càng giảm thiểu ở mức độ thấp nhất thể hiện ở mức phí bảo hiểm phải đóng là nhỏ
nhất đủ để mỗi người đó không ảnh hưởng gì quan trọng đến hoạt động sinh hoạt
sản xuất của mình. Hoạt động theo quy luật số đông, đó là nguyên tắc cơ bản
nhất của bảo hiểm. Bên cạnh đó, đám đông tham gia vào cộng đồng càng lớn thể
hiện nhu cầu bảo hiểm càng tăng theo đà phát triển của nền kinh tế – xã hội,
những người được bảo hiểm không thể và cũng không cần biết nhau, họ chỉ biết người
quản lý cộng đồng (doanh nghiệp bảo hiểm) là người nhận phí bảo hiểm và cam kết
sẽ bồi thường cho họ khi có rủi ro tổn thất xảy ra. Hoạt động bảo hiểm thương
mại tạo ra được một sự hoán chuyển rủi ro từ những người được bảo hiểm qua
người bảo hiểm trên cơ sở một văn bản pháp lý: Hợp đồng bảo hiểm. Điều này đã
tạo ra một rủi ro mới đe dọa mối quan hệ giữa 2 bên trên hợp đồng. Dịch vụ bảo
hiểm thương mại là một lời cam kết, liệu lúc xảy ra tổn thất, doanh nghiệp bảo
hiểm có thực hiện hoặc có khả năng thực hiện cam kết của mình hay không trong
khi phí bảo hiểm đã được trả theo “nguyên tắc ứng trước”. Ngược lại
các rủi ro, tổn thất được bảo hiểm được minh thị rõ ràng trên hợp đồng, liệu có
sự man trá của phía người được bảo hiểm hay không để nhận hưởng tiền bảo hiểm.
Như vậy, mối quan hệ giữa 2 bên trên hợp đồng bảo hiểm gắn liền với sự tin
tưởng lẫn nhau và điều này đòi hỏi phải đảm bảo nguyên tắc cơ bản thứ hai:
Nguyên tắc trung thực.

Các nét khác nhau cơ
bản giữa Bảo hiểm thương mại và Bảo hiểm xã hội

·        
Bảo hiểm thương mại
được thực hiện bởi các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích cung cấp cho xã hội
một loại hàng hóa, dịch vụ “an toàn”, trên cơ sở đó, nhà bảo hiểm tìm
kiếm một khoản lợi nhuận kinh doanh bảo hiểm. Trong khi đó, Bảo hiểm xã hội
được thực hiện bởi cơ quan bảo hiểm xã hội
một tổ chức sự nghiệp của nhà nước nhằm chăm lo phúc lợi xã
hội. Nói cách khác, Mối quan hệ của Bảo hiểm thương mại nẩy sinh mang tính chất
tự nguyện, còn Mối quan hệ của Bảo hiểm xã hội mang tính chất bắt buộc.

·        
Nội dung bảo hiểm
thương mại rất rộng. Bảo hiểm thương mại không chỉ đảm bảo cho các rủi ro về
con người như Bảo hiểm xã hội mà còn đảm bảo các rủi ro của các đối tượng khác
như tài sản (công trình, nhà cửa, nhà xưởng, hàng hóa, phương tiện sản xuất
kinh doanh và sinh hoạt) và trách nhiệm (trách nhiệm công cộng, trách nhiệm sản
phẩm,..);

·        
Bảo hiểm thương mại có
mức phí, mức chi trả bồi thường phụ thuộc vào thỏa thuận phù hợp theo nhu cầu
(xuất phát từ giá trị tài sản được bảo hiểm, số tiền bảo hiểm lựa chọn, mức độ
quan trọng của rủi ro,..) và khả năng của Người được bảo hiểm, thông thường
nghĩa vụ và quyền lợi trên Hợp đồng bảo hiểm là tương xứng nhau. Ngược lại, phí
bảo hiểm của Bảo hiểm xã hội được xác định theo thu nhập của người lao động
(theo tỷ lệ phần trăm trên lương) chứ không theo tình trạng sức khỏe, tuổi thọ
của họ.

·        
Mối quan hệ của Người
được bảo hiểm và Người bảo hiểm trong Bảo hiểm thương mại là có thời hạn và
thông thường là ngắn hạn (bảo hiểm phi nhân thọ). Ngược lại mối quan hệ giữa
Người lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội là dài hạn, trọn đời.

·        
Cộng đồng Người được
bảo hiểm của Bảo hiểm thương mại là một “nhóm đóng” có giới hạn trong một thời
kỳ nhất định còn đối với Bảo hiểm xã hội đó lại là một “nhóm mở” có đầu vào và
đầu ra là các thế hệ người lao động nối tiếp nhau.

Phân loại Bảo hiểm
thương mại:

Phân loại theo đối tượng bảo hiểm: Căn cứ vào
đối tượng bảo hiểm thì toàn bộ các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm được chia thành
ba nhóm: bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người và bảo hiểm trách nhiệm dân sự:

·        
Bảo hiểm tài sản: là
loại bảo hiểm lấy tài sản làm đối tượng bảo hiểm. Khi xảy ra rủi ro tổn thất về
tài sản như mất mát, hủy hoại về vật chất, người bảo hiểm có trách nhiệm bồi
thường cho người được bảo hiểm căn cứ vào giá trị thiệt hại thực tế và mức độ
đảm bảo thuận tiện hợp đồng;

·        
Bảo hiểm con người
(bảo hiểm nhân thọ): đối tượng của các loại hình này, chính là tính mạng, thân
thể, sức khỏe của con người. Người ký kết hợp đồng bảo hiểm, nộp phí bảo hiểm
để thực hiện mong muốn nếu như rủi ro xảy ra làm ảnh hưởng tính mạng, sức khỏe
của người được bảo hiểm thì họ hoặc một người thụ hưởng hợp pháp khác sẽ nhận
được khoản tiền do người bảo hiểm trả. Bảo hiểm con người có thể là bảo hiểm
nhân thọ hoặc bảo hiểm tai nạn – bệnh.

·        
Bảo hiểm trách nhiệm
dân sự: Đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm phát sinh do ràng buộc của các quy
định trong luật dân sự, theo đó, người được bảo hiểm phải bồi thường bằng tiền
cho người thứ 3 những thiệt hại gây ra do hành vi của mình hoặc do sự vận hành
của tài sản thuộc sở hữu của chính mình. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự có thể là
bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp hoặc bảo hiểm trách nhiệm công cộng.

Phân loại theo kỹ thuật
bảo hiểm:

Theo cách phân loại này các loại hình bảo hiểm
được chia ra làm 2 loại: loại dựa trên kỹ thuật “phân bổ” và loại dựa
trên kỹ thuật “tồn tích vốn”.

·        
Các loại bảo hiểm dựa
trên kỹ thuật phân bổ: là các loại bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro có tính chất
ổn định (tương đối) theo thời gian và thường độc lập với tuổi thọ con người
(nên gọi là bảo hiểm phi nhân thọ). Hợp đồng bảo hiểm loại này thường là ngắn
hạn (một năm);

·        
Các loại bảo hiểm dựa
trên kỹ thuật tồn tích vốn: là các loại bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro có tính
chất thay đổi (rõ rệt) theo thời gian và đối tượng, thường gắn liền với tuổi
thọ con người (nên gọi là bảo hiểm nhân thọ). Các hợp đồng loại này thường là
trung và dài hạn (10 năm, 20 năm, trọn đời…).

Phân loại theo tính
chất của tiền bảo hiểm trả:

·        
Các loại bảo hiểm có
số tiền bảo hiểm trả theo nguyên tắc bồi thường: Theo nguyên tắc này, số tiền
mà người bảo hiểm trả cho người được bảo hiểm không bao giờ vượt quá giá trị
thiệt hại thực tế mà anh ta đã phải gánh chịu. Các loại bảo hiểm này gồm có:
bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự (gọi chung là bảo hiểm thiệt
hại). Với loại bảo hiểm nầy, về nguyên tắc, người mua bảo hiểm không được ký
hợp đồng trên giá hoặc bảo hiểm trùng;

·        
Các loại bảo hiểm có
số tiền bảo hiểm trả theo nguyên tắc khoán: Người được

bảo hiểm sẽ nhận được
số tiền khoán theo đúng mức mà họ đã thỏa thuận trước trên hợp đồng bảo hiểm
với người bảo hiểm tùy thuộc và phù hợp với nhu cầu cũng như khả năng đóng phí.
Đây chính là các loại bảo hiểm nhân thọ và một số trường hợp của bảo hiểm tai
nạn, bệnh tật. Với loại bảo hiểm nầy, về nguyên tắc, người mua bảo hiểm có thể
cùng một lúc ký nhiều hợp đồng bảo hiểm cho một đối tương và không bị hạn chế
số tiền bảo hiểm

Phân
loại theo phương thức quản lý:

Với cách phân loại
này, các nghiệp vụ bảo hiểm thương mại được chia làm 2 hình thức: bắt buộc và
tự nguyện

·        
Bảo
hiểm tự nguyện
: Là những loại bảo
hiểm mà hợp đồng được kết lập dựa hoàn toàn trên sự cân nhắc và nhận thức của
người được bảo hiểm. Đây là tính chất vốn có của bảo hiểm thương mại khi nó có
vai trò như là một hoạt động dịch vụ cho sản xuất và sinh hoạt con người.

·        
Bảo
hiểm bắt buộc:
Được hình thành trên
cơ sở luật định nhằm bảo vệ lợi ích của nạn nhân trong các vụ tổn thất và bảo
vệ lợi ích của toàn bộ nền kinh tế – xã hội. Các hoạt động nguy hiểm có thể dẫn
đến tổn thất con người và tài chính trầm trọng gắn liền với trách nhiệm dân sự nghề
nghiệp thường là đối tượng của sự bắt buộc này. Ví dụ: bảo hiểm trách nhiện dân
sự chủ xe cơ giới, trách nhiệm dân sự của thợ săn… Tuy nhiên, sự bắt buộc chỉ
là bắt buộc người có đối tượng mua bảo hiểm chứ không bắt buộc mua bảo hiểm ở
đâu. Tính chất tương thuận của hợp đồng bảo hiểm được ký kết vẫn còn nguyên vì
người được bảo hiểm vẫn tự do lựa chọn nhà bảo hiểm cho mình.

Nguồn:  Coppywriting
từ Wikipedia

theo dõi trang cá nhân, riêng tư của mình tại đây
https://.www.facebook.com/lyvanhung21111

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *